Điều trị ung thư gan bằng hạt vi cầu phóng xạ

Ung thư gan ở Việt Nam có tỷ lệ cao nhất trong các loại bệnh ung thư ở cả hai giới. Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ viêm gan B và tỷ lệ ung thư gan nguyên phát cao trong khu vực.

Hiện nay điều trị ung thư gan có nhiều phương pháp khác nhau như: phẫu thuật, xạ trị, hoá trị… và một số phương pháp khác như tiêm cồn tuyệt đối, nút mạch, đôt sóng cao tần…

Điều trị ung thư gan bằng hạt vi cầu phóng xạ có kích thước tương đối nhỏ, những hạt này sẽ được đưa vào động mạch gan đến đúng vị trí nuôi khối u. Những hạt này phát ra tia bức xạ được gọi là hạt vi cầu phóng xạ Y-90. Khi những hạt vi cầu này đến khối u sẽ phát tia phóng xạ và tiêu diệt những tế bào ung thư một cách chọn lọc và ngay tại chỗ do khả năng đâm xuyên của các tia bức xạ này chỉ khoảng vài milimet trong tổ chức. Các hạt vi cầu này đồng thời khiến cho việc lưu thông dẫn máu bị cản trở, tắc nghẽn làm cho khối u ít được tưới máu tươi.

Điều trị ung thư gan bằng hạt vi cầu phóng xạ

Đây là phương pháp điều trị vi cầu phóng xạ có  chọn lọc, các tế bào ung thư gan được tiêu diệt chọn lọc nhất, nhưng các tế bào lành xung quanh được bảo vệ một cách tối ưu nhất.

Những năm gần đây, sự phát triển về kỹ thuật cũng như tiến bộ công nghệ đã cho phép hai kỹ thuật hoá tắc mạch với hạt vi cầu phóng xạ, tắc mạch xạ trị trong thực hành lâm sàng và được coi là những phương pháp can thiệp qua đường động mạch mới trong điều trị bệnh ung thư gan.

Nếu cung cấp đủ liều bức xạ có thể gây chết các mô ung thư. Các tế bào gan bình thường có khả năng chịu tác động ít hơn tác động bức xạ. đối với ung thư gan, do điều trị bằng xạ trị chiếu ngoài còn nhiều hạn chế do khả năng dung nạp tia xạ kém của gan xơ mà kết quả thường gây tổn thương gan do tia xạ.

Không giống như các nguồn phát xạ ngoài, các hạt vi cầu là nguồn phát xạ lân cận ngay mô hay trong lòng mạch nên trong khối u. Chính vì thế mà nó phù hợp để tạo ra nguồn xạ trị cao nhất giúp tiêu diệt mô u trong khi mức độ bức xạ đối với nhu mô gan bình thường vẫn nằm trong giới hạn được cho phép. Chính vì thế, kỹ thuật này có ý nghĩa đối với những bệnh nhân ung thư gan nguyên phát giai đoạn không thể phẫu thuật, những bệnh nhân ung thư gan thứ phát đáp ứng kém với những phương pháp điều trị hiện tại.
Previous
Next Post »
0 Komentar